26/12/2024

Tại phiên giao dịch ngày 9/11, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục chỉ ghi nhận hoạt động chào thầu 1.000 tỷ đồng của Ngân hàng Nhà nước trên kênh cầm cố. Tuy nhiên, không có khối lượng trúng thầu và không có khối lượng lưu hành trên kênh này.

Thông thường, cuối năm luôn là dịp thanh khoản được hâm nóng bởi nhu cầu chi trả thanh toán tăng cao. Thời điểm này năm ngoái, thông qua kênh tín phiếu, nhà điều hành phải bơm lượng tiền lớn vào thị trường, có những phiên lên tới 10.000 tỷ đồng do trước đó đã hút ròng mạnh để điều tiết thanh khoản.

Hay thậm chí, vào năm trước nữa, các thành viên còn phải vay mượn trên kênh cầm cố. Quy mô kênh cầm cố vào trung tuần tháng 11/2018 luôn được giữ ở mức 60.000 tỷ đồng.

Song, năm nay, vì ảnh hưởng dịch Covid-19 nên tăng trưởng tín dụng thấp, Ngân hàng Nhà nước lại không hút tiền về nhằm tạo áp lực hạ lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp nên thị trường mở phải đóng băng trong suốt quãng thời gian vừa qua.

Ở khía cạnh khác, lượng tiền đối ứng đổ vào thị trường khi Ngân hàng Nhà nước mua ngoại tệ củng cố Quỹ dự trữ ngoại hối càng khiến thanh khoản hệ thống dồi dào và nhẹ nhàng bước vào mùa cao điểm.

Cũng thể hiện sự bình lặng, lãi suất bình quân liên ngân hàng VND giữ nguyên ở kỳ hạn qua đêm trong khi giảm 0,01 điểm phần trăm ở kỳ hạn 1 tuần; tăng 0,02 điểm phần trăm ở các kỳ hạn 2 tuần và 1 tháng so với phiên cuối tuần trước. Cụ thể giao dịch tại qua đêm 0,17%; 1 tuần 0,22%; 2 tuần 0,28%, 1 tháng 0,41%.

Tương tự, lãi suất chào bình quân liên ngân hàng USD tăng 0,01 điểm phần trăm ở các kỳ hạn ngắn trong khi không thay đổi ở kỳ hạn 1 tháng. Giao dịch tại qua đêm 0,17%; 1 tuần 0,22%; 2 tuần 0,28%, 1 tháng 0,37%.

Lãi suất liên ngân hàng ổn định đã giúp tỷ giá USD/VND tiếp tục đi ngang. Hôm qua, tỷ giá chốt phiên giao dịch ở mức 23.174 VND/USD, giảm nhẹ 1 đồng so với phiên liên trước. Tỷ giá trên thị trường tự do giữ nguyên ở cả hai chiều mua vào và bán ra, giao dịch tại 23.200 – 23.230 VND/USD.

Tại thị trường trái phiếu chính phủ thứ cấp, lợi suất giữ nguyên ở kỳ hạn 3 năm trong khi tăng nhẹ ở các kỳ hạn 5 năm và 7 năm; giảm nhẹ ở các kỳ hạn 10 năm và 15 năm. Cụ thể lợi suất 3 năm 0,37%; 5 năm 1,34%; 7 năm 1,65%; 10 năm 2,58%; 15 năm 2,79%.