Chia sẻ tại Hội thảo “Hòa giải tranh chấp tài chính – ngân hàng” ngày 25/8, Luật sư Trương Thanh Đức, chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng nhận định, các nhà băng hiện tại cơ bản vẫn tốt, nhưng đây mới chỉ là khởi đầu của khó khăn sau này. Vì hiện tại các nhà băng vẫn đang được gia hạn nợ, giữ nguyên nhóm nợ, tiếp tục cho vay.
“Phải 1-2 năm thì mới bắt đầu bộc lộ khó khăn. Đến khi nào doanh nghiệp chết như ngả rạ thì ngân hàng mới bắt đầu nằm xuống. Ngân hàng không thể nào nằm xuống trước, luôn luôn nằm xuống sau doanh nghiệp”, vị chuyên gia cho biết.
Ông cũng chia sẻ quan điểm, hiện nay ngân hàng đang bị chửi oan rất nhiều là lãi cao, không chịu giảm miễn lãi. “Đó đều là đánh giá cảm tính, không có lý, vì câu chuyện giữa ngân hàng và khách hàng là thương lượng, hoà giải chứ pháp luật không bắt ép được. Chỉ trừ một số trường hợp đặc biệt có nghị định chỉ đích danh yêu cầu ngân hàng phải làm theo”, ông nói.
Trước đây pháp luật cấm giữ nguyên nhóm nợ, nợ đã xấu thì phải ghi là nợ xấu, cấm trích dự phòng thiếu, cấm ngân hàng gia hạn không đúng quy định; nhưng hiện nay đã cho phép do hoàn cảnh đặc biệt nên phải chấp nhận. Điều này cả doanh nghiệp và ngân hàng đều thích.
Có nhiều người đặt câu hỏi, Chính phủ, NHNN đã yêu cầu các NHTM thực hiện cơ cấu nợ, giảm lãi; vậy nếu ngân hàng không giảm lãi, không tha phạt, không chịu cơ cấu nợ thì doanh nghiệp có thể kiện không? Có thể dựa vào Chỉ thị của Thủ tướng, Nghị quyết của Chính phủ, Thông tư của NHNN,… để kiện hay không?
Theo LS Trương Thanh Đức, cần hình dung đâu là pháp luật, đâu là thoả thuận giữa 2 bên. Ví dụ, luật quy định lãi suất cho vay không quá 20% mà ngân hàng cho vay 21% thì kiện thắng chắc ăn.
Nhưng luật không bắt ngân hàng phải giảm lãi, đó không phải là nghĩa vụ mà chỉ là hỗ trợ, là thiện chí, hợp tác giữa ngân hàng và khách hàng, là cùng phải cứu nhau. Ngân hàng sẽ hỗ trợ, nhưng họ còn phải xem sức khoẻ, năng lực, rủi ro. Họ sẵn sàng cơ cấu nợ, nhưng khi thấy nợ xấu quá rồi, nguy cơ quá cao thì họ có quyền chuyển nhóm nợ.
“Còn đối với cho vay, dù dự án rất khả thi, có tài sản đảm bảo đầy đủ, mọi thứ đẹp như tranh… mà ngân hàng không cho vay cũng phải chịu vì không vi phạm gì”, ông nói.
Kể cả với trường hợp áp dụng bất khả kháng thì cũng phải đi cùng nhiều điều kiện, không phải cứ vì dịch Covid là sẽ tính bất khả kháng. Không thể luôn coi Covid là trường hợp bất khả kháng trong mọi sự vụ tranh chấp, có vụ áp dụng được, có vụ không. Chẳng hạn phải xét cụ thể ngành nghề, lĩnh vực, chịu ảnh hưởng như thế nào với sự kiện bất khả kháng.
Tuy nhiên, nếu áp dụng bộ luật dân sự về thực hiện hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Với “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” thì nếu thực hiện đúng nghĩa vụ bị thiệt hại quá nặng thì các bên bắt buộc phải ngồi lại với nhau để thương lượng với nhau. Nếu các bên không nói chuyện được với nhau thì đưa ra toà nhưng đó lại là câu chuyện rắc rối, phức tạp hơn.
Ngân hàng cũng cần tính toán cho cân đối, trong điều kiện nền kinh tế khó khăn như vậy, muốn thu đủ nợ của khách cũng là rất khó, kiện ra toà còn mất thêm án phí. Bên chủ nợ nếu đợi ra toà án có thể sẽ được phán quyết được thu 100% khoản nợ nhưng bị mất thời gian chờ đợi, chi phí cơ hội, mối quan hệ khách hàng,…thì có khi hoà giải chỉ thu được 50-70% nhưng lại tốt hơn.
“Đối với những tranh chấp không rõ ràng như này thì hoà giải cần thiết và hiệu quả hơn”, LS Trương Thanh Đức cho biết.